Trường THCS Nguyễn Thiếp phát động cuộc TÌM HIỂU THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU
- Thứ hai - 21/09/2015 11:35
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Trường THCS Nguyễn Thiếp phát động cuộc thi TÌM HIỂU THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU VÀ TÁC PHẨM "TRUYỆN KIỀU" trong toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viên và học sinh toàn trường với số lượng 100% giáo viên tham gia.
ĐỀ CƯƠNG CUỘC THI
TÌM HIỂU THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU
Yêu cầu: Toàn thể CBGV-NV tham gia dự thi;
Bài thi viết tay, trình bày trên khổ giấy A4, một mặt.
Nộp vào sáng thứ 4 (16/9/2015) cho đ/c Xuyên - Văn thư
Khi làm bài các đ/c nên tìm hiểu thêm tài liệu để bài làm có chất lượng hơn; Riêng câu 5 CBGV-NV phải tự trình bày.
Câu 1: Nêu những nét chính về thân thế sự nghiệp Nguyễn Du. Các yếu tố quê hương, gia đình, thời đại đã ảnh hưởng như thế nào đến sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du?
Vương Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Nàng xuất thân từ một gia đình trung lưu, dưới Thúy Kiều còn hai em là Thúy Vân và Vương Quan Trong tiết thanh minh, Kiều cùng hai em đi tảo mộ, trong dịp này nàng gặp Kim Trọng, một chàng trai tài hoa, hào hoa, phong nhã, hai người đã nảy sinh tình cảm. Trên đường về Kiều gặp nấm mồ vô danh hưu quạnh của Đạm Tiên như báo trước cho những giông bão đời mình. Sau khi gặp Thúy Kiều ở buổi thanh minh, Kim Trọng dò la tin tức của nàng rồi dọn đến gần nhà Kiều và tìm cách làm quen. Nhân buổi cha mẹ vắng nhà Kim Trọng tâm tình, họ thề nguyện yêu nhau và trao đính ước.Gia đình Kim Trọng có tang chú, chàng phải về quê chịu tang, trong khi đó cha Kiều bị thằng bán tơ vu oan. Vương ông và Vương Quan bị tra khảo Kiều phải bán mình để chuộc cha. Trước khi theo Mã Giám Sinh, nàng đã nhờ Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng để không phụ tình chàng. Nàng bị Mã Giám Sinh làm nhục và bán vào Lầu xanh , bị Tú Bà và Sở Khanh lừa sống tủi nhục, ít lâu sau Kiều được Thúc sinh khách buôn cứu và lấy làm vợ. Vợ Thúc Sinh là Hoạn Thư biết chuyện và đánh ghen tàn nhẫn. Kiều bỏ trốn nương nhờ cửa phật nhưng sự vô tình của sư Giác Duyên đã gửi nàng cho Bạc Hạnh- một kẻ buôn người, Kiều lại rơi vào lầu xanh lần nữa. Tại đây, Kiều gặp Từ Hải một đấng nam nhi đầu đội trời chung chân đạp đất, Từ Hải giải thoát và giúp nàng báo ân, báo oán. Kiều sơ suất và mắc lừa Hồ Tôn Hiến - một mệnh quan triều đình Từ Hải chết đứng giữa trận, Kiều bị ép gả cho một tên thổ quan. Trên đường ngồi kiệu hoa, nàng đã nhảy xuống sông Tiền Đường may sao nàng được vải Giác Duyên cứu vớt. Tuy kết duyên với Thúy Vân, Kim Trọng vẫn nhớ thương Kiều, chàng đã cất công đi tìm nàng. May mắn thay nàng gặp được vải Giác Duyên, gia đình đoàn tụ. Chiều ý mọi người, Thúy Kiều nối duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước kết duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy…
* Những giá trị đặc sắc về nộ dung và nghệ thuật của Truyện Kiều:
+ Giá trị nội dung: Truyện Kiều có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu
- Giá trị hiện thực:Truyện Kiều là một bức tranh hiện thực về một xã hội bất công tàn bạo, là lời tố cáo xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người, đặc biệt là những người tài hoa, người phụ nữ.
Truyện Kiều tố cáo thế lực xã hội phong kiến từ bon sai nha, quan xử kiện, quan tổng đốc trọng thần, bọn ma cô, chủ chứa… đều ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người. Truyện là sức mạnh ma quái đồng tiền đã làm tha hóa con người, dẫm lên lương tâm con người,xóa mờ công lí.
- Giá trị nhân đạo: Là tiếng nói thương cảm,tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con người. Truyện đề cao từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ khát vọng chân chính, quyền sốn, quyền được yêu, tự do công lí.
+ Giá trị nghệ thuật:
- Ngôn được xem là đỉnh cao nghệ thuật của Truyện Kiều: Sự phong phú về từ vững, sự phát triển từ nhiều nghĩa, từ đồng nghĩa, đa dạng về lớp từ (dùng từ khẩu ngữ, từ Hán Việt …). Ngôn ngữ Truyện Kiều trong sáng giàu sức gợi, truyền cảm. Cách sử dụng ngôn ngữ, điêu luyện, cân nhắc có chọn lựa.
- Truyện Kiều thể hiện nhiều phương thức biểu đạt: Kể, tả, biểu cảm, nghị
- Truyện sử dụng nhiều phương pháp: Tả cảnh ngụ tình, tả tâm trạng nhân vật bộc lộ qua hình thức, cử chỉ, hành động
- Thể loại truyện thơ với thể thơ lục bát với 3254 câu
Câu 3: Ngoài “Truyện Kiều” bạn hãy nêu tên và nội dung một số tác phẩm tiêu biểu củ Nguyễn Du?
Ngoài “Truyện Kiều”Nguyễn Du đã để lại cho nền văn học nước nhà những tác phẩm văn học có giá trị.
* Những tác phẩm bằng chữ Nôm.
1. Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh). Ông viết bài này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, các chùa lập đền cầu siêu giải thoát cho các linh hồn. Tác phẩm viết cho nhiều hạng người khác nhau, từ nông thôn dân nghèo khổ cho đến quý tộc. Qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo với con người đặc biệt là kiếp người nghèo khổ.
2. “Thác lời trai phường nón” gồm 48 câu được viết bằng thể thơ lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón, làm thơ tỏ tình với hai cô gái phường vải.
3. Văn tế sống Trường lưu nhị vị (Văn tế hai cô gái trường lưu) tác phẩm gồm 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
* Những tác phẩm bằng chữ hán:
1. Bắc hành tạp lục (Ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương Bắc) là tập thơ gồm 131 bài được viết trong khoảng thời gian ông dẫn đầu đoàn đi sứ sang Trung Quốc từ năm 1813 (Quý Dậu) đến đầu năm Giáp Tuất 1814. Đây là một tập thơ nói lên lòng thương cảm sâu xa những người trung nghĩa bị hám hại, những người tài hoa bị vùi dập, những người lao động cùng khổ bị đói rét cùng nỗi khinh ghét giới thống trị kiêu căng và tàn bạo được Nguyễn Du nói lên bằng những vần thơ sâu sắc.
2. Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở Miền Nam) Sáng tác khoảng từ năm 1805-1812 tức là khi được tặng hàm Đông các viện học sĩ ở Huế cho đến thời kỳ làm cai bạ dinh Quảng Bình.
Tập thơ có 40 bài, mỗi bài thể hiện tâm trạng, cảm xúc riêng trong từng hoàn cảnh
3. Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan của nhà nguyễn. Tác phẩ là những tâm tình của nhà thơ trong những năm tháng sống long đong vất vả ở Thái Bình cũng như ở Tiên Điền, nhà thơ lúc nào cũng buồn một nỗi buồn sâu sắc, ám ảnh và day dứt vô cùng.
Câu 4: Hãy cho biết sức lan tỏa của “Truyện Kiều” trong đời sỗng xã hội từ trước đến nay.
- Sức lan tỏa của Truyện Kiều trong đời sống xã hội Việt Nam từ trước tới nay: Trong suốt hai thế kỉ qua Truyện Kiều và Nguyễn Du luôn là nguồn cảm hứng của nhiều thế hệ. Thật hiến có tác giả và tác phẩm nào ngấm vào máu thịt của con người Việt Nam mà có sức sống lâu bền đến vậy. Truyện Kiều cuả Nguyễn Du đã đi vào thơ ca quen thuộc như bờ ao, lũy tre, ruộng vườn, trăng sao, hoa lá, bầu trời Việt Nam… và trở thành bao điều trăn trở của các nhà thơ và trở thành một bộ phận không thể tách rời trong đời sống tâm hồn của người Việt Nam. Truyện được xem là một tài sản tinh thần của tất cả mọi người. Những người dân bình thường giản dị tiếp nhận “Truyện Kiều” bằng cách đọc hoặc nghe người khác kể lại.
Truyện Kiều đi vào đời sống con người dưới các hình thức sáng tác như nhại Kiều, đố Kiều, tập Kiều, lấy Kiều. Truyện còn thể hiện dưới yếu tố tâm linh, dưới hình thưc “Bói Kiều” vào các ngày lễ, tết, rằm, lúc gia đình có những việc đại sự, quan trọng. Tầng lớp trí thưcs tiếp nhận truyện kiều bằng cách phê bình, đánh giá tư tưởng đạo đức, nho giáo, đi sâu phân tích nội tâm từng nhân vật, sự tác động tới đời sống con người.
Bên cạnh đó “Truyện Kiều” còn là một nguồn cảm hứng khơi mào cho hàng loạt tác phẩm thuộc nhiều thể lạo văn học nghệ thuật khác nhau như: Kịch, Tuồng, Thơ ca, Phim ảnh, Hội họa, Âm nhạc, Cải lương… đặc biệt là thơ ca. Mỗi nhà thơ tìm cho mình cảm hứng riêng từ số phận đến tình duyên, nỗi đau đến nỗi cô đơn qua nhân vật Thúy Kiều. Điều đó cúng thể hiện tình thành với Nguyễn Du, sự thành kính, nể phục ông.
Truyện Kiều là một tác phẩm văn học Việt Nam, tự hào đứng cùng những tác phẩm bất hủ của thế giới, được bạn đọc trong và ngoài nước yêu mến và trở thành món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Đặc biệt hơn truyện còn đi vào tâm linh để con người gửi gắm niềm tin và vận mệnh của mình và trở thành niềm tự hào của người dân Việt Nam
Câu 5: Cảm nhận của bạn về cuộc thi tìm hiểu về thân thế sự nghiệp của Nguyễn Du và “Truyện Kiều” cũng như việc kỉ niệm 250 năm ngày sinh và vinh danh, danh nhân văn hào thế giới – Đại thi hào Nguyễn Du(hs ,gv tự làm)
TÌM HIỂU THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU
Yêu cầu: Toàn thể CBGV-NV tham gia dự thi;
Bài thi viết tay, trình bày trên khổ giấy A4, một mặt.
Nộp vào sáng thứ 4 (16/9/2015) cho đ/c Xuyên - Văn thư
Khi làm bài các đ/c nên tìm hiểu thêm tài liệu để bài làm có chất lượng hơn; Riêng câu 5 CBGV-NV phải tự trình bày.
Câu 1: Nêu những nét chính về thân thế sự nghiệp Nguyễn Du. Các yếu tố quê hương, gia đình, thời đại đã ảnh hưởng như thế nào đến sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du?
Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long. Tổ tiên ông vốn từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (thuộc Hà Tây và nay thuộc Hà Nội) sau di cư vào xã Nghi Xuân, huyện Tiên Điền (nay là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Nguyễn Du thuộc về một gia đình khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan. Đến thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê... Ngoài là một đại thần, ông Nghiễm còn là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu sử học. Ông Nghiễm có cả thảy tám vợ và 21 người con trai Người con trưởng là Nguyễn Khản (1734-1786) đỗ Tam giáp tiến sĩ, làm quan tới chức Tham Tụng, tước Toản Quận Công (con bà chính, rất mê hát xướng, nổi tiếng phong lưu một thời, thân với chúa Trịnh Sâm), người con thứ hai là Nguyễn Điều đỗ Hương cống, từng làm trấn thủ Sơn Tây. Nếu kể theo thứ tự này, thì Nguyễn Du đứng hàng thứ bảy, nên còn được gọi là Chiêu Bảy. Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần (1740-1778), con gái một người thuộc hạ làm chức câu kế, , người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, trẻ hơn chồng 32 tuổi. Bà sinh được năm con, bốn trai và một gái.Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi)). Năm 1780, khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh. Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã. Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên, không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên. Năm 1786, Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà. Năm 1789, Nguyễn Huệ, một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại Việt. Nguyễn Du vợ , quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình, sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?). Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796, nghe tin ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy,bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802, khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long, thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn. Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội). Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau: Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc. Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ. Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Năm 1809: làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc. Sau khi đi sứ về vào năm 1814, ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ. Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820 lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh)Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh (xem: Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v.). Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “ tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.” Về mặt nghệ thuật, Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm ơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở Truyện Kiều, đã cho thấy bằng thể thơ lục bát .
Thời đại,gia đình và bản thân ông đã tạo nên một Nguyễn Du-một đại thi hào,một danh nhân văn hoá thế giới.
Câu 2: Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm “Truyện Kiều” (khoảng 500 từ). Trình bày giá tị những đặc sắc nội dung và nghệ thuật của truyện.Thời đại,gia đình và bản thân ông đã tạo nên một Nguyễn Du-một đại thi hào,một danh nhân văn hoá thế giới.
Vương Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn. Nàng xuất thân từ một gia đình trung lưu, dưới Thúy Kiều còn hai em là Thúy Vân và Vương Quan Trong tiết thanh minh, Kiều cùng hai em đi tảo mộ, trong dịp này nàng gặp Kim Trọng, một chàng trai tài hoa, hào hoa, phong nhã, hai người đã nảy sinh tình cảm. Trên đường về Kiều gặp nấm mồ vô danh hưu quạnh của Đạm Tiên như báo trước cho những giông bão đời mình. Sau khi gặp Thúy Kiều ở buổi thanh minh, Kim Trọng dò la tin tức của nàng rồi dọn đến gần nhà Kiều và tìm cách làm quen. Nhân buổi cha mẹ vắng nhà Kim Trọng tâm tình, họ thề nguyện yêu nhau và trao đính ước.Gia đình Kim Trọng có tang chú, chàng phải về quê chịu tang, trong khi đó cha Kiều bị thằng bán tơ vu oan. Vương ông và Vương Quan bị tra khảo Kiều phải bán mình để chuộc cha. Trước khi theo Mã Giám Sinh, nàng đã nhờ Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng để không phụ tình chàng. Nàng bị Mã Giám Sinh làm nhục và bán vào Lầu xanh , bị Tú Bà và Sở Khanh lừa sống tủi nhục, ít lâu sau Kiều được Thúc sinh khách buôn cứu và lấy làm vợ. Vợ Thúc Sinh là Hoạn Thư biết chuyện và đánh ghen tàn nhẫn. Kiều bỏ trốn nương nhờ cửa phật nhưng sự vô tình của sư Giác Duyên đã gửi nàng cho Bạc Hạnh- một kẻ buôn người, Kiều lại rơi vào lầu xanh lần nữa. Tại đây, Kiều gặp Từ Hải một đấng nam nhi đầu đội trời chung chân đạp đất, Từ Hải giải thoát và giúp nàng báo ân, báo oán. Kiều sơ suất và mắc lừa Hồ Tôn Hiến - một mệnh quan triều đình Từ Hải chết đứng giữa trận, Kiều bị ép gả cho một tên thổ quan. Trên đường ngồi kiệu hoa, nàng đã nhảy xuống sông Tiền Đường may sao nàng được vải Giác Duyên cứu vớt. Tuy kết duyên với Thúy Vân, Kim Trọng vẫn nhớ thương Kiều, chàng đã cất công đi tìm nàng. May mắn thay nàng gặp được vải Giác Duyên, gia đình đoàn tụ. Chiều ý mọi người, Thúy Kiều nối duyên với Kim Trọng nhưng cả hai cùng nguyện ước kết duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy…
* Những giá trị đặc sắc về nộ dung và nghệ thuật của Truyện Kiều:
+ Giá trị nội dung: Truyện Kiều có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu
- Giá trị hiện thực:Truyện Kiều là một bức tranh hiện thực về một xã hội bất công tàn bạo, là lời tố cáo xã hội phong kiến đã chà đạp lên quyền sống của con người, đặc biệt là những người tài hoa, người phụ nữ.
Truyện Kiều tố cáo thế lực xã hội phong kiến từ bon sai nha, quan xử kiện, quan tổng đốc trọng thần, bọn ma cô, chủ chứa… đều ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người. Truyện là sức mạnh ma quái đồng tiền đã làm tha hóa con người, dẫm lên lương tâm con người,xóa mờ công lí.
- Giá trị nhân đạo: Là tiếng nói thương cảm,tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con người. Truyện đề cao từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ khát vọng chân chính, quyền sốn, quyền được yêu, tự do công lí.
+ Giá trị nghệ thuật:
- Ngôn được xem là đỉnh cao nghệ thuật của Truyện Kiều: Sự phong phú về từ vững, sự phát triển từ nhiều nghĩa, từ đồng nghĩa, đa dạng về lớp từ (dùng từ khẩu ngữ, từ Hán Việt …). Ngôn ngữ Truyện Kiều trong sáng giàu sức gợi, truyền cảm. Cách sử dụng ngôn ngữ, điêu luyện, cân nhắc có chọn lựa.
- Truyện Kiều thể hiện nhiều phương thức biểu đạt: Kể, tả, biểu cảm, nghị
- Truyện sử dụng nhiều phương pháp: Tả cảnh ngụ tình, tả tâm trạng nhân vật bộc lộ qua hình thức, cử chỉ, hành động
- Thể loại truyện thơ với thể thơ lục bát với 3254 câu
Câu 3: Ngoài “Truyện Kiều” bạn hãy nêu tên và nội dung một số tác phẩm tiêu biểu củ Nguyễn Du?
Ngoài “Truyện Kiều”Nguyễn Du đã để lại cho nền văn học nước nhà những tác phẩm văn học có giá trị.
* Những tác phẩm bằng chữ Nôm.
1. Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh). Ông viết bài này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hàng triệu người chết, khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, các chùa lập đền cầu siêu giải thoát cho các linh hồn. Tác phẩm viết cho nhiều hạng người khác nhau, từ nông thôn dân nghèo khổ cho đến quý tộc. Qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo với con người đặc biệt là kiếp người nghèo khổ.
2. “Thác lời trai phường nón” gồm 48 câu được viết bằng thể thơ lục bát. Nội dung là thay lời anh con trai phường nón, làm thơ tỏ tình với hai cô gái phường vải.
3. Văn tế sống Trường lưu nhị vị (Văn tế hai cô gái trường lưu) tác phẩm gồm 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.
* Những tác phẩm bằng chữ hán:
1. Bắc hành tạp lục (Ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương Bắc) là tập thơ gồm 131 bài được viết trong khoảng thời gian ông dẫn đầu đoàn đi sứ sang Trung Quốc từ năm 1813 (Quý Dậu) đến đầu năm Giáp Tuất 1814. Đây là một tập thơ nói lên lòng thương cảm sâu xa những người trung nghĩa bị hám hại, những người tài hoa bị vùi dập, những người lao động cùng khổ bị đói rét cùng nỗi khinh ghét giới thống trị kiêu căng và tàn bạo được Nguyễn Du nói lên bằng những vần thơ sâu sắc.
2. Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở Miền Nam) Sáng tác khoảng từ năm 1805-1812 tức là khi được tặng hàm Đông các viện học sĩ ở Huế cho đến thời kỳ làm cai bạ dinh Quảng Bình.
Tập thơ có 40 bài, mỗi bài thể hiện tâm trạng, cảm xúc riêng trong từng hoàn cảnh
3. Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan của nhà nguyễn. Tác phẩ là những tâm tình của nhà thơ trong những năm tháng sống long đong vất vả ở Thái Bình cũng như ở Tiên Điền, nhà thơ lúc nào cũng buồn một nỗi buồn sâu sắc, ám ảnh và day dứt vô cùng.
Câu 4: Hãy cho biết sức lan tỏa của “Truyện Kiều” trong đời sỗng xã hội từ trước đến nay.
- Sức lan tỏa của Truyện Kiều trong đời sống xã hội Việt Nam từ trước tới nay: Trong suốt hai thế kỉ qua Truyện Kiều và Nguyễn Du luôn là nguồn cảm hứng của nhiều thế hệ. Thật hiến có tác giả và tác phẩm nào ngấm vào máu thịt của con người Việt Nam mà có sức sống lâu bền đến vậy. Truyện Kiều cuả Nguyễn Du đã đi vào thơ ca quen thuộc như bờ ao, lũy tre, ruộng vườn, trăng sao, hoa lá, bầu trời Việt Nam… và trở thành bao điều trăn trở của các nhà thơ và trở thành một bộ phận không thể tách rời trong đời sống tâm hồn của người Việt Nam. Truyện được xem là một tài sản tinh thần của tất cả mọi người. Những người dân bình thường giản dị tiếp nhận “Truyện Kiều” bằng cách đọc hoặc nghe người khác kể lại.
Truyện Kiều đi vào đời sống con người dưới các hình thức sáng tác như nhại Kiều, đố Kiều, tập Kiều, lấy Kiều. Truyện còn thể hiện dưới yếu tố tâm linh, dưới hình thưc “Bói Kiều” vào các ngày lễ, tết, rằm, lúc gia đình có những việc đại sự, quan trọng. Tầng lớp trí thưcs tiếp nhận truyện kiều bằng cách phê bình, đánh giá tư tưởng đạo đức, nho giáo, đi sâu phân tích nội tâm từng nhân vật, sự tác động tới đời sống con người.
Bên cạnh đó “Truyện Kiều” còn là một nguồn cảm hứng khơi mào cho hàng loạt tác phẩm thuộc nhiều thể lạo văn học nghệ thuật khác nhau như: Kịch, Tuồng, Thơ ca, Phim ảnh, Hội họa, Âm nhạc, Cải lương… đặc biệt là thơ ca. Mỗi nhà thơ tìm cho mình cảm hứng riêng từ số phận đến tình duyên, nỗi đau đến nỗi cô đơn qua nhân vật Thúy Kiều. Điều đó cúng thể hiện tình thành với Nguyễn Du, sự thành kính, nể phục ông.
Truyện Kiều là một tác phẩm văn học Việt Nam, tự hào đứng cùng những tác phẩm bất hủ của thế giới, được bạn đọc trong và ngoài nước yêu mến và trở thành món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Đặc biệt hơn truyện còn đi vào tâm linh để con người gửi gắm niềm tin và vận mệnh của mình và trở thành niềm tự hào của người dân Việt Nam
Câu 5: Cảm nhận của bạn về cuộc thi tìm hiểu về thân thế sự nghiệp của Nguyễn Du và “Truyện Kiều” cũng như việc kỉ niệm 250 năm ngày sinh và vinh danh, danh nhân văn hào thế giới – Đại thi hào Nguyễn Du(hs ,gv tự làm)